Tháng 11 - NIPTEX | Viện Nghiên cứu Sáng chế và Khai thác Công nghệViện Nghiên cứu sáng chế và Khai thác công nghệ - NIPTEX - Bộ Khoa học và Công nghệhttps://niptex.gov.vn/vi/nam-2017/thang-112024-03-29T16:42:58+07:00Viện Nghiên cứu sáng chế và Khai thác công nghệ - NIPTEX - Bộ Khoa học và Công nghệJoomla! - Open Source Content ManagementQuy trình kích thích sinh sản cho cá nước ngọt sống trong môi trường nước mặn2017-11-20T01:46:00+07:002017-11-20T01:46:00+07:00https://niptex.gov.vn/vi/nam-2017/thang-11/719-quy-trinh-kich-thich-sinh-san-cho-ca-nuoc-ngot-song-trong-moi-truong-nuoc-manniptexad<p style="text-align: justify;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"> Việc duy trì muối cho chất dịch bên trong cơ thể cá được thực hiện nhờ các máy bơm muối sinh học đặc biệt trong mang. Đối với cá nước mặn, những chiếc bơm này giúp loại bỏ muối trong cơ thể chúng. Ngược lại, ở cá nước ngọt, bơm sinh học lại làm nhiệm vụ giữ muối. Lớp da cá có khả năng tương hoán với nước. Cá nước ngọt hấp thụ nước qua da và loại bỏ lượng nước dư thừa qua thận. Trong khi đó, cá nước mặn lại bị thoát nước qua da nên thường có xu hướng bù lại bằng cách uống.</span><br /><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 18.6667px; text-align: justify;"> </span>Khi cá nước mặn được nuôi trong môi trường nước ngọt, chúng sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì lượng muối cân bằng trong cơ thể. Ngược lại, khi cá nước ngọt được nuôi trong môi trường nước mặn, chúng cũng sẽ gặp khó khăn trong việc loại bỏ lượng muối dư thừa. Cả 2 loại cá trên khi được nuôi những trong môi trường có lượng muối khác biệt với môi trường sống quen thuộc của chúng đều sẽ chết sớm nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời.</span><br /><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 18.6667px; text-align: justify;"> </span>Thông thường, nếu cá con được sinh trong môi trường nước ngọt, mang bơm sinh học loại bỏ muối thừa của chúng sẽ bị vô hiệu hóa và không phát triển. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, nếu cá con được sinh ra ngay trong bọc nước ối của cá mẹ, bộ phận này cũng bị vô hiệu hóa nhưng vẫn tiếp tục phát triển được bình thường. Với sự hỗ trợ của các hocmôn xuất hiện tự nhiên, độ mặn của nước ối có thể tăng lên ngang bằng với độ mặn của nước biển mà không ảnh hưởng đến sự phát triển của cá con. Khi cá con trưởng thành, chúng cũng sẽ thừa hưởng cơ chế sinh sản tương tự. Từ lúc đó, cá trưởng thành và các hậu duệ của chúng hoàn toàn có thể thể sinh sản và sinh trưởng được trong môi trường nước mặn mà không cần bất kỳ biện pháp can thiệp nào.</span></p>
<p> </p>
<p style="text-align: center;"><img src="https://niptex.gov.vn/images/news/tin_bai/sang_che_10/12.4_95832.jpg" alt="12.4 95832" width="403" height="400" /></p>
<p style="text-align: center;"><span style="font-family: arial, helvetica, sans-serif; font-size: 12pt;">Tổng quan về quy trình giúp cá nước ngọt đẻ con sống và sinh sản được trong môi trường nước mặn (Ảnh: Theo sáng chế)</span></p>
<p style="text-align: justify;"><br /><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 18.6667px; text-align: justify;"> </span>Sáng chế đưa ra một quy trình giúp cá nước ngọt đẻ con sống và sinh sản được trong môi trường nước mặn, đặc biệt ứng dụng vào việc mang cá cảnh nước ngọt nuôi chung với cá cảnh nước mặn trong bể nước mặn. Đối tượng ban đầu của quy trình là cá con nuôi trong bể nước có độ mặn bằng với độ mặn môi trường nước ối của cá mẹ. Khi cá con đã quen với môi trường nuôi dưỡng mới, bắt đầu tăng dần độ mặn của nước lên cho đến khi bằng với chuẩn độ mặn của 1 bể nuôi bình thường. Khi đó, cá con và các hậu duệ của nó có thể sinh trưởng và sinh sản bình thường trong môi trường nước mặn mà không cần bất kỳ biện pháp can thiệp ngoài nào.</span></p><p style="text-align: justify;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"> Việc duy trì muối cho chất dịch bên trong cơ thể cá được thực hiện nhờ các máy bơm muối sinh học đặc biệt trong mang. Đối với cá nước mặn, những chiếc bơm này giúp loại bỏ muối trong cơ thể chúng. Ngược lại, ở cá nước ngọt, bơm sinh học lại làm nhiệm vụ giữ muối. Lớp da cá có khả năng tương hoán với nước. Cá nước ngọt hấp thụ nước qua da và loại bỏ lượng nước dư thừa qua thận. Trong khi đó, cá nước mặn lại bị thoát nước qua da nên thường có xu hướng bù lại bằng cách uống.</span><br /><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 18.6667px; text-align: justify;"> </span>Khi cá nước mặn được nuôi trong môi trường nước ngọt, chúng sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì lượng muối cân bằng trong cơ thể. Ngược lại, khi cá nước ngọt được nuôi trong môi trường nước mặn, chúng cũng sẽ gặp khó khăn trong việc loại bỏ lượng muối dư thừa. Cả 2 loại cá trên khi được nuôi những trong môi trường có lượng muối khác biệt với môi trường sống quen thuộc của chúng đều sẽ chết sớm nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời.</span><br /><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 18.6667px; text-align: justify;"> </span>Thông thường, nếu cá con được sinh trong môi trường nước ngọt, mang bơm sinh học loại bỏ muối thừa của chúng sẽ bị vô hiệu hóa và không phát triển. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, nếu cá con được sinh ra ngay trong bọc nước ối của cá mẹ, bộ phận này cũng bị vô hiệu hóa nhưng vẫn tiếp tục phát triển được bình thường. Với sự hỗ trợ của các hocmôn xuất hiện tự nhiên, độ mặn của nước ối có thể tăng lên ngang bằng với độ mặn của nước biển mà không ảnh hưởng đến sự phát triển của cá con. Khi cá con trưởng thành, chúng cũng sẽ thừa hưởng cơ chế sinh sản tương tự. Từ lúc đó, cá trưởng thành và các hậu duệ của chúng hoàn toàn có thể thể sinh sản và sinh trưởng được trong môi trường nước mặn mà không cần bất kỳ biện pháp can thiệp nào.</span></p>
<p> </p>
<p style="text-align: center;"><img src="https://niptex.gov.vn/images/news/tin_bai/sang_che_10/12.4_95832.jpg" alt="12.4 95832" width="403" height="400" /></p>
<p style="text-align: center;"><span style="font-family: arial, helvetica, sans-serif; font-size: 12pt;">Tổng quan về quy trình giúp cá nước ngọt đẻ con sống và sinh sản được trong môi trường nước mặn (Ảnh: Theo sáng chế)</span></p>
<p style="text-align: justify;"><br /><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 18.6667px; text-align: justify;"> </span>Sáng chế đưa ra một quy trình giúp cá nước ngọt đẻ con sống và sinh sản được trong môi trường nước mặn, đặc biệt ứng dụng vào việc mang cá cảnh nước ngọt nuôi chung với cá cảnh nước mặn trong bể nước mặn. Đối tượng ban đầu của quy trình là cá con nuôi trong bể nước có độ mặn bằng với độ mặn môi trường nước ối của cá mẹ. Khi cá con đã quen với môi trường nuôi dưỡng mới, bắt đầu tăng dần độ mặn của nước lên cho đến khi bằng với chuẩn độ mặn của 1 bể nuôi bình thường. Khi đó, cá con và các hậu duệ của nó có thể sinh trưởng và sinh sản bình thường trong môi trường nước mặn mà không cần bất kỳ biện pháp can thiệp ngoài nào.</span></p>Hệ thống nuôi trồng hải sản ngoài trời và phương pháp nuôiI các loài động vật biển2017-11-06T01:46:00+07:002017-11-06T01:46:00+07:00https://niptex.gov.vn/vi/nam-2017/thang-11/718-he-thong-nuoi-trong-hai-san-ngoai-troi-va-phuong-phap-nuoii-cac-loai-dong-vat-bienniptexad<p style="text-align: justify;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"> Nhu cầu lương thực toàn thế giới ngày 1 tăng, do đó, đã có hàng loạt nghiên cứu nhằm tìm kiếm giải pháp sản xuất lương thực, bao gồm cả thịt động vật lẫn rau quả, một cách hiệu quả hơn đã được thực hiện. Các loài sinh vật biển, gồm động vật giáp xác và cá, từ lâu đã là nguồn cung cấp protein hảo hạng cho con người. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hoạt động của ngành công nghiệp chế biến và sản xuất các sản phẩm từ sinh vật biển hoang dã đã bị thắt chặt và kiểm soát nghiêm ngặt do những vấn đề về ô nhiễm môi trường và khai thác bừa bãi. Sản lượng cá đánh bắt giảm đi gây khó khăn cho việc duy trì hoạt động sản xuất trên các ngư trường.</span><br /><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 18.6667px; text-align: justify;"> </span>Nuôi trồng hải sản diễn ra chủ yếu tại các vùng ven biển và sử dụng nguồn nước ở cửa sông hoặc cửa biển, nhiều dưỡng chất thu từ nước thải trong đất liền. Do hệ thống nuôi trồng thủy sản mở phải phụ thuộc vào các nguồn nước tự nhiên và thường xuyên tiếp xúc với môi trường không khí ngoài trời nên nhược điểm của hệ thống này là chất lượng nước sử dụng có sự biến đổi rất lớn tùy thuộc vào bản chất của dòng chảy trong đất liền. Bên cạnh đó, ở những khu vực bị ô nhiễm, các loại thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu và chất thải nông nghiệp cũng có thể theo nguồn nước chảy vào trong ao nuôi. Tương tự, chất thải công nghiệp hoặc chất thải đô thị cũng có tác động xấu nghiêm trọng đến chất lượng nước trong ao nuôi.</span><br /><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 18.6667px; text-align: justify;"> </span>Từ những thách thức trên đây, nhiều nỗ lực nghiên cứu nuôi trồng hải sản trong các hệ thống bể kín nhằm tạo ra môi trường sống tương ứng cho sinh vật trong bể nuôi trên mặt đất đã được thực hiện. Với phương thức này, vấn đề ô nhiễm môi trường sẽ được giải quyết nhờ cách ly với nguồn nước tự nhiên mà thay vào đó, sử dụng hệ thống nước tuần hoàn có cơ chế tinh lọc để tái sử dụng nước liên tục, nhờ đó, giảm thiểu lượng nước thải và lượng nước cần thay mới.</span></p>
<p> </p>
<p style="text-align: center;"><img src="https://niptex.gov.vn/images/news/tin_bai/sang_che_10/12.3_dfebe.jpg" alt="12.3 dfebe" width="628" height="400" /></p>
<p style="text-align: center;"><span style="font-family: arial, helvetica, sans-serif; font-size: 12pt;">Một mặt cắt ngang hệ thống nuôi trồng hải sản của sáng chế (Ảnh: Theo sáng chế)</span></p>
<p style="text-align: justify;"><br /><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 18.6667px; text-align: justify;"> </span>Sáng chế đưa ra một hệ thống nuôi trồng hải sản mở gồm 1 máy truyền dẫn nước từ cửa sông đến ao dự trữ có máy sục ozon để lọc nước với nồng độ ozon cao. Nước đã xử lý bằng ozon được dẫn từ ao dự trữ qua 1 bể lọc than hoạt tính đến khu vực ao chứa và hòa lẫn cùng nước tái sử dụng của nhiều ao nuôi. Hỗn hợp nước tái sử dụng và nước bổ sung đã xử lý ozon được bơm vào trong 1 bể lắng, sau đó sục khí ozon nồng độ thấp, để lắng và sục khí để loại bỏ axit hypobrom và cuối cùng bơm vào kênh dự trữ để bổ sung cho một hoặc nhiều ao nuôi.</span></p><p style="text-align: justify;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"> Nhu cầu lương thực toàn thế giới ngày 1 tăng, do đó, đã có hàng loạt nghiên cứu nhằm tìm kiếm giải pháp sản xuất lương thực, bao gồm cả thịt động vật lẫn rau quả, một cách hiệu quả hơn đã được thực hiện. Các loài sinh vật biển, gồm động vật giáp xác và cá, từ lâu đã là nguồn cung cấp protein hảo hạng cho con người. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hoạt động của ngành công nghiệp chế biến và sản xuất các sản phẩm từ sinh vật biển hoang dã đã bị thắt chặt và kiểm soát nghiêm ngặt do những vấn đề về ô nhiễm môi trường và khai thác bừa bãi. Sản lượng cá đánh bắt giảm đi gây khó khăn cho việc duy trì hoạt động sản xuất trên các ngư trường.</span><br /><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 18.6667px; text-align: justify;"> </span>Nuôi trồng hải sản diễn ra chủ yếu tại các vùng ven biển và sử dụng nguồn nước ở cửa sông hoặc cửa biển, nhiều dưỡng chất thu từ nước thải trong đất liền. Do hệ thống nuôi trồng thủy sản mở phải phụ thuộc vào các nguồn nước tự nhiên và thường xuyên tiếp xúc với môi trường không khí ngoài trời nên nhược điểm của hệ thống này là chất lượng nước sử dụng có sự biến đổi rất lớn tùy thuộc vào bản chất của dòng chảy trong đất liền. Bên cạnh đó, ở những khu vực bị ô nhiễm, các loại thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu và chất thải nông nghiệp cũng có thể theo nguồn nước chảy vào trong ao nuôi. Tương tự, chất thải công nghiệp hoặc chất thải đô thị cũng có tác động xấu nghiêm trọng đến chất lượng nước trong ao nuôi.</span><br /><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 18.6667px; text-align: justify;"> </span>Từ những thách thức trên đây, nhiều nỗ lực nghiên cứu nuôi trồng hải sản trong các hệ thống bể kín nhằm tạo ra môi trường sống tương ứng cho sinh vật trong bể nuôi trên mặt đất đã được thực hiện. Với phương thức này, vấn đề ô nhiễm môi trường sẽ được giải quyết nhờ cách ly với nguồn nước tự nhiên mà thay vào đó, sử dụng hệ thống nước tuần hoàn có cơ chế tinh lọc để tái sử dụng nước liên tục, nhờ đó, giảm thiểu lượng nước thải và lượng nước cần thay mới.</span></p>
<p> </p>
<p style="text-align: center;"><img src="https://niptex.gov.vn/images/news/tin_bai/sang_che_10/12.3_dfebe.jpg" alt="12.3 dfebe" width="628" height="400" /></p>
<p style="text-align: center;"><span style="font-family: arial, helvetica, sans-serif; font-size: 12pt;">Một mặt cắt ngang hệ thống nuôi trồng hải sản của sáng chế (Ảnh: Theo sáng chế)</span></p>
<p style="text-align: justify;"><br /><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 14pt;"><span style="font-family: 'times new roman', times; font-size: 18.6667px; text-align: justify;"> </span>Sáng chế đưa ra một hệ thống nuôi trồng hải sản mở gồm 1 máy truyền dẫn nước từ cửa sông đến ao dự trữ có máy sục ozon để lọc nước với nồng độ ozon cao. Nước đã xử lý bằng ozon được dẫn từ ao dự trữ qua 1 bể lọc than hoạt tính đến khu vực ao chứa và hòa lẫn cùng nước tái sử dụng của nhiều ao nuôi. Hỗn hợp nước tái sử dụng và nước bổ sung đã xử lý ozon được bơm vào trong 1 bể lắng, sau đó sục khí ozon nồng độ thấp, để lắng và sục khí để loại bỏ axit hypobrom và cuối cùng bơm vào kênh dự trữ để bổ sung cho một hoặc nhiều ao nuôi.</span></p>