Patent Pool- Mô hình liên kết thương mại hóa sáng chế

Bài viết đề cập tới mô hình Patent Pool, một mô hình liên kết thương mại hóa sáng chế đã xuất hiện từ nhiều năm trước nhưng đến nay đang được áp dụng tại nhiều nơi trên thế giới. Theo tác giả thì đây có thể là một mô hình liên kết hợp tác thương mại hóa sáng chế mà Việt Nam có thể áp dụng trong thời gian sắp tới.
I- Đặt vấn đề
Sáng chế là tài sản vô hình được được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Sáng chế có tính chất lãnh thổ, quốc gia nghĩa là sáng chế chỉ được bảo hộ tại quốc gia nào khi chủ đơn nộp bảo hộ tại quốc gia đó. Hiện nay có hàng trăm triệu bằng sáng chế và được sở hữu bởi nhiều cá nhân tổ chức khác nhau, vì vậy sẽ không thể tránh khỏi việc có nhiều sáng chế được cấp bằng nhưng có phạm vi bảo hộ chồng lấn lên nhau . Do đó trong quá trình thương mại hóa sẽ dẫn đến việc tranh chấp kiện tụng về phạm vi bảo hộ của các sáng chế đã được cấp bằng.
Một giải pháp đã được áp dụng nhiều hơn ở thời điểm hiện tại để xử lý tình huống như đã nêu ở trên, đó là các bên cùng xây dựng một Patent Pool. Vậy Patent Pool là gì?
II- Khái niệm và lịch sử hình thành
1. Khái niệm
Năm 2001 USPTO đã phát hành Sách trắng về cấp bằng sáng chế. Trong cuốn sách USPTO đã nêu định nghĩa rất rõ ràng về Patent Pool. “Patent Pool là một thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều chủ sở hữu bằng sáng chế để cấp phép cho một hoặc nhiều bằng sáng chế của họ cho nhau hoặc bên thứ ba. Patent Pool cho phép các bên quan tâm tập hợp tất cả các công cụ cần thiết để thực hành một công nghệ nhất định tại một nơi, ví dụ: "mua sắm một cửa", thay vì lấy giấy phép từ từng chủ sở hữu bằng sáng chế. ”
Hoặc một khái niệm khác được viết trong báo cáo về Patent Pool của WIPO: “Patent pool” – thỏa thuận cùng chuyển giao hoặc sử dụng sáng chế - được hiểu là một thỏa thuận cấp li-xăng chéo cho một hoặc nhiều sáng chế giữa hai hay nhiều chủ sở hữu sáng chế cho nhau hoặc cho bên thứ ba. Thông thường, những vụ thỏa thuận này có liên quan đến các công nghệ phức tạp đòi hỏi phải có bằng sáng chế bổ sung nhằm cung cấp giải pháp kỹ thuật sao cho có hiệu quả. (WIPO, 2014).
Như vậy theo 2 cách định nghĩa trên chúng ta có thể hiểu là trước đây việc li- xăng sáng chế chỉ thường diễn ra giữa 2 bên với nhau bao gồm bên giao li- xăng và bên nhận li- xăng ( 2 đối tượng) thì nay đã có thể phát triển thành nhiều bên, và không chỉ li- xăng một sáng chế mà có thể đồng thời li-xăng nhiều sáng chế. Đồng thời khái niệm về Patent Pool có thể hiểu là một Quỹ sáng chế chung được hình thành từ sự đóng góp sáng chế của nhiều chủ sở hữu sáng chế, đây cũng có thể hiểu là một liên minh sáng chế dùng chung. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả xin được giải thích Patent Pool như một Quỹ sáng chế chung.

patentpool1 76a57

Minh họa so sánh số lượng giấy phép cần thiết khi không có và khi có patent pool
(Nguồn: Birgit Verbeure, Esther van Zimmeren, Gert Matthijs, Geertrui Van Overwalle, Patent pools and diagnostic testing, TRENDS in Biotechnology Vol.24 No.3 March 2006)

2. Lịch sử hình thành Patent Pool
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng Patent Pool được hình thành cách đây hơn trăm năm và hầu hết các chuyên gia thừa nhận "Sự kết hợp máy may" năm 1856 là sự khởi đầu cho quỹ sáng chế dùng chung hiện đại đầu tiên tại Hoa Kỳ và trên thế giới.
Vào giữa những năm 1850, những bằng sáng chế liên quan đến máy may được tổ chức chủ yếu bởi bốn công ty và một cá nhân. Năm người này Elias Howe, Grover & Baker, I.M. Singer & Co., Wheeler, và Wilson & Co. và Howe đã dành phần lớn thời gian và tiền bạc của họ để kiện và chống lại nhau trong những vụ kiện về bằng sáng chế. Tuy có thể thắng trong những vụ kiện liên quan đến bằng sáng chế nhưng doanh thu quả những công ty may này vẫn giảm dần và không có dấu hiệu tăng trưởng trong nhiều năm. Orlando B. Potter, một luật sư và cũng là Chủ tịch của Grover & Baker, được cho là đã phá vỡ bế tắc. Vào tháng 10 năm 1856, ông đã đề xuất với những người khác rằng họ nên kết hợp sở hữu trí tuệ của họ cùng với sự tin tưởng lẫn nhau và cho rằng thay vì kiện tụng tại tòa đồng thời làm mất đi lợi nhuận của họ khi tốn quá nhiều thời gian vào kiện tụng thì có thể tập hợp các bằng sáng chế của họ lại thành một quỹ sáng chế dùng chung. Chính điều này đã dẫn đến một quyết định mang tính đột phá: Quỹ sáng chế chung đầu tiên được tạo ra vào năm 1856 bởi các nhà sản xuất máy may Grover & Baker, Singer, Wheeler và Wilson để cũng nhau giải quyết những người vi phạm bằng sáng chế của mình.
Một ví dụ khác không thế nhắc không nhắc đến trong quá trình phát triển Quỹ sáng chế chung đó là việc ra đời Hiệp hội sản xuất máy bay Mỹ năm 1917, bao gồm hầu như tất cả các nhà sản xuất máy bay tại Hoa Kỳ. Hiệp hội này ra đời dựa trên cơ sở tạo nên quỹ dùng chung các bằng sáng chế về máy bay. Quỹ dùng chung sáng chế này rất quan trọng trong lịch sử vì nó phá vỡ sự ảnh hưởng của Công ty Wright và Công ty Curtiss là hai chủ sở hữu sáng chế lớn, chuyên chế tạo các máy bay mới. Nước Mỹ rất cần các máy bay mới khi bước vào Thế chiến thứ nhất. Franklin D Roosevelt, khi đó là Trợ lý Bộ trưởng Hải quân, đã giúp hình thành quỹ dùng chung sáng chế. Về cơ bản đây là một hình thức li-xăng cưỡng bức cho an ninh quốc phòng vì quỹ giúp đảm bảo rằng các nhà sản xuất máy bay có quyền tiếp cận với các bằng sáng chế thiết yếu (Narinder S. Banait và Robert J. Yamasaki, 2009).
Theo OECD, có ba loại quỹ dùng chung sáng chế. Loại đầu tiên, đặc biệt là những quỹ được hình thành trong nửa đầu thế kỷ 20, phát sinh từ sự cần thiết phải vượt qua hành vi chiến lược từ các chủ sở hữu sáng chế đã cản trở sự phát triển và bán sản phẩm mới. Nhiều quỹ sáng chế trong số này không khác gì các cơ chế cấp phép chéo phức tạp và tạo điều kiện cho sự kiểm soát của một vài nhân vật để thống trị thị trường. Do ảnh hưởng chống cạnh tranh của các quỹ này, nhiều quỹ đã bị phá hủy vào giữa thế kỷ. Loại quỹ dùng chung sáng chế thứ hai tạo ra khi các công ty muốn thiết lập một tiêu chuẩn công nghệ chung cho một ngành công nghiệp. Những quỹ này có tính kích thích cạnh tranh trong đó quỹ tạo ra khả năng sản xuất các công nghệ mới, vắng mặt quỹ, sẽ rất khó khăn. Loại thứ ba, loại quỹ gần đây nhằm mục đích vượt qua chi phí giao dịch để phục vụ cộng đồng chứ không phải là lợi ích thương mại. Cách tiếp cận kinh doanh - xã hội này được minh họa trong quỹ dùng chung sáng chế SARS đã tập hợp các cơ quan nghiên cứu công, một bộ phận của chính phủ và ngành công nghiệp để tạo điều kiện cho việc phát triển vắc xin virus SARS.
III – Quy trình thành lập và lợi ích cho các bên tham gia quỹ sáng chế chung
Trong khuôn khổ giới hạn của bài viết tác giả xin giới thiệu sơ bộ về quy trình thành lập và lợi ích cơ bản các bên khi tham gia quỹ sáng chế chung
Quy trình thành lập một quỹ sáng chế dùng chung
Quá trình thành lập một quỹ sáng chế dùng chung trải qua các giai đoạn: (1) thành lập ban/hội đồng chủ động xem xét quỹ sáng chế dùng chung (gọi chung là Tổ cân nhắc các quyền SHTT), thành viên được chọn ra từ các bên tham gia vào hoạt động tiêu chuẩn hóa; (2) lựa chọn các bằng sáng chế thiết yếu; (3) lựa chọn hoặc thành lập công ty cấp phép; (4) xác định các điều kiện cấp phép; và nếu cần (5) tiến hành các thủ tục sàng lọc trước đối với các cơ quan quản lý Luật Chống độc quyền (Anti-monopoly Law) .

patentpool2 6b142

Quá trình thành lập một quỹ sáng chế dùng chung (Nguồn: Hisashi Kato (2006), An Introduction to Patent Pools, Japan Institute of Invention and Innovation)

Thành lập Tổ cân nhắc các Quyền SHTT
Tổ cân nhắc các Quyền SHTT là một nhóm tự nguyện bao gồm những người cấp phép (licensor) và người được cấp phép (licensee) tiềm năng. Nhiệm vụ của Tổ là xác định phạm vi, tức là xác định xem quỹ sáng chế dùng chung sẽ tập trung vào phần nào của tiêu chuẩn công nghệ. Ngoài ra khi đã xác định được phạm vi, Tổ phải xây dựng tiêu chuẩn lựa chọn các quyền đối với sáng chế thiết yếu trong quỹ sáng chế dùng chung.
Lựa chọn bằng sáng chế thiết yếu
Bằng sáng chế được góp quỹ là những bằng sáng chế thiết yếu cho các tiêu chuẩn công nghệ liên quan. Nguyên nhân là vì: nếu những bằng sáng chế không phải là thiết yếu cũng được góp quỹ và kế hoạch cấp li-xăng cho một gói gộp tất cả các bằng sáng chế này được thông qua, sẽ có nguy cơ các bằng sáng chế này bị loại bỏ bởi các cơ quan thực thi Luật chống độc quyền vì bị coi là hành vi “bán kèm” (tie-in sale). Có hai khái niệm về các bằng sáng chế thiết yếu: Bằng sáng chế thiết yếu về mặt kỹ thuật và Bằng sáng chế thiết yếu về mặt thương mại.
Bằng sáng chế kỹ thuật thiết yếu là những bằng sáng chế để phát triển công nghệ mà chắc chắn sẽ được áp dụng khi thực hiện một tiêu chuẩn công nghệ. Ngược lại, Bằng sáng chế thương mại thiết yếu là những bằng sáng chế phải được thực hiện để đạt được hiệu quả từ góc độ thương mại, chẳng hạn như đảm bảo các thông số kỹ thuật, hoặc từ góc độ chi phí mặc dù vẫn có những cách thức khác để vượt qua khi thực hiện theo tiêu chuẩn công nghệ.
Lựa chọn hoặc thành lập công ty cấp li-xăng
Nếu đã có sẵn một công ty cấp li-xăng hoạt động được trong lĩnh vực công nghệ mà quỹ sáng chế chung tập trung vào, thì có thể thuê khoán công ty này thực thi tất cả các nhiệm vụ nếu được sự đồng ý của các bên liên quan. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, các bên liên quan trong quỹ sáng chế chung (chủ yếu là những người có quyền đối với các bằng sáng chế thiết yếu) sẽ đóng góp tài chính để thành lập công ty cấp li-xăng. Ví dụ: công ty MPEG LA, LLC. (Hoa Kỳ) thuộc quỹ sáng chế về công nghệ MPEG2 , và công ty 3G Licensing Ltd. (Anh) thuộc quỹ sáng chế 3G Patent Platform .
Xác định các điều kiện cấp phép (li-xăng)
Thông qua việc lựa chọn các quyền sáng chế thiết yếu đề cập ở trên, người nắm giữ các quyền đối với sáng chế thiết yếu cũng được xác định. Công việc tiếp theo là thiết lập các điều kiện cấp li-xăng thông qua một thỏa thuận giữa những người nắm giữ các quyền đối với sáng chế thiết yếu. Nếu công ty cấp li-xăng hoặc thành viên trong Tổ cân nhắc các Quyền SHTT cùng với các chủ sở hữu quyền sáng chế thiết yếu cùng tham gia vào quá trình ra quyết định này thì sẽ có nguy cơ phát sinh các vấn đề liên quan đến Luật chống độc quyền.
Các thủ tục sàng lọc trước của các cơ quan thực thi Luật chống độc quyền
Thành lập quỹ sáng chế chung thực chất là sự phối hợp thành lập một liên doanh kinh tế và pháp lý giữa các công ty mà trong điều kiện thường là đối thủ cạnh tranh của nhau, nhưng đã xác định được các điều kiện cấp phép thông qua một thỏa thuận cấp phép. Nói chung, nếu xét thấy rằng các thỏa thuận và hoạt động của quỹ sáng chế dùng chung đang hạn chế cạnh tranh thị trường về tổng thể, chúng có thể trở thành đối tượng điều chỉnh của các cơ quan thực thi chống độc quyền.
Xác định và phân bổ tiền bản quyền
Trong hầu hết các quỹ sáng chế dùng chung, tiền bản quyền không phải là phần trăm trong giá thành mà được xác định là một giá trị cố định (tức số tiền trên mỗi đơn vị). Điều này được dựa trên triết lý rằng giá trị của bằng sáng chế được bàn đến (tức là tiền bản quyền phải trả) khi thực hiện các bằng sáng chế thiết yếu là một gói không đổi, bất kể giá bán là bao nhiêu. Hơn nữa, trên thực tế có một vấn đề phải đối mặt là rất dễ nắm bắt được số lượng mặt hàng bán được của một sản phẩm riêng lẻ, nhưng có được ý tưởng về giá bán lẻ lại tương đối khó.
Lợi ích các bên tham gia quỹ sáng chế chung
Giảm chi phí giao dịch
Những năm trước đây, sáng chế thường bao gồm các sản phẩm thương mại hoàn chỉnh (ví dụ như máy may). Kết quả là, các nhà sản xuất khi muốn sản xuất và bán các thiết bị được cấp bằng độc quyền sáng chế thường chỉ cần đàm phán với một chủ sở hữu sáng chế để được cấp phép các quyền cần thiết. Nhưng trong thời đại của chúng ta hiện nay, các công cụ như điện thoại thông minh, dịch vụ internet, máy tính... được cấp bằng độc quyền bởi nhiều chủ sở hữu khác nhau, ví dụ như một chiếc điện thoại sản xuất ra thì nhà sản xuất phải trả phí bản quyền cho rất nhiều sáng chế với nhiều chủ sở hữu khác nhau. Theo các chuyên gia, không những các bằng sáng chế về hóa học, công nghệ sinh học, phần cứng và phần mềm tăng lên nhanh chóng, mà ngày càng có nhiều sản phẩm kết hợp không chỉ một bằng sáng chế mới đơn lẻ mà còn kết hợp nhiều thành phần khác nhau, mỗi thành phần trong đó có thể là đối tượng của một hoặc nhiều bằng sáng chế. Do đó, các nhà sản xuất ngày nay phải có giấy phép từ nhiều chủ sở hữu quyền khác nhau, dẫn đến tốn nhiều chi phí hơn so với cấp phép từ một chủ sở hữu quyền duy nhất. Vì vậy, thông qua quỹ sáng chế chung các nhà sản xuất sẽ chỉ cần được cấp phép từ đơn vị quản lý quỹ thay vì phải đi xin cấp phép từ nhiều chủ sở hữu sáng chế, nhờ vậy giảm được nhiều chi phí giao dịch.
Giảm kiện tụng
Quỹ sáng chế chung nổi lên như một cơ chế nổi bật trong giải quyết các cuộc cạnh tranh bằng sáng chế về công nghệ, dành cho các công ty cạnh tranh sở hữu bằng sáng chế vi phạm lẫn nhau. Để có thể giảm hoặc loại bỏ nhu cầu kiện tụng về quyền sáng chế thì những tranh chấp đó có thể được giải quyết dễ dàng hoặc tránh được thông qua việc hình thành một quỹ sáng chế chung. Việc giảm kiện tụng sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và tiền bạc, đồng thời cũng tránh được sự không chắc chắn về quyền sở hữu sáng chế do kiện tụng gây ra.
Ngăn chặn sự độc quyền sáng chế
Một lợi ích tiếp theo liên quan đến việc tập hợp các bằng sáng chế là loại bỏ các vấn đề gây ra bởi việc “chặn” các bằng sáng chế hoặc “xếp chồng”giấy phép, vi dụ như trong công nghệ sinh học, việc cấp bằng sáng chế cho axit nucleic có thể chặn các bằng sáng chế hoặc dẫn đến xếp chồng giấy phép. Ví dụ điển hình về việc chặn bằng sáng chế là câu chuyện về công nghệ sản xuất máy bay của Mỹ trong Thế chiến I. Hai chủ sở hữu bằng sáng chế lớn trong lĩnh vực máy bay, Công ty Wright và Công ty Curtiss, đã ngăn chặn việc chế tạo bất kỳ máy bay mới nào. Chính sự độc quyền về bằng sáng chế của các công ty sản xuất máy bay đã làm cho vấn đề sản xuất máy bay quân sự của Chính phủ Hoa kỳ gặp phải khó khăn, dẫn tới sự phát triển máy bay ở Hoa Kỳ đã thua xa châu Âu rằng trong Thế chiến I. Quốc hội đã thành lập một ủy ban để giải quyết vấn đề. Ủy ban này, do Franklin D.Roosevelt đứng đầu, đã khuyến nghị rằng Curtiss và anh em nhà Wright tạo thành một quỹ sáng chế chung: Hiệp hội các nhà sản xuất máy bay, kết hợp tất cả các bằng sáng chế cần thiết để chế tạo máy bay. Ba tuần sau, Hoa Kỳ bước vào Thế chiến thứ nhất; Hoa Kỳ đã tăng vọt từ 83 máy bay vào năm 1916 lên 1.807 vào năm 1917 và 11.950 vào năm 1918. Như vậy, bằng cách tạo ra một quỹ sáng chế chung của các bằng sáng chế cơ bản, các doanh nghiệp có thể dễ dàng có được tất cả giấy phép cần thiết để tạo ra một công nghệ cụ thể từ một nhà cấp phép. Điều này có thể tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh chóng của công nghệ mới kể từ khi mở ra sân chơi cho tất cả các thành viên và những người được cấp phép của quỹ sáng chế chung
Phân phối rủi ro
Một lợi ích lớn khác từ việc tham gia quỹ sáng chế chung là phân phối rủi ro. Việc nghiên cứu sẽ dễ dàng hơn và giảm đáng kể rủi ro khi các chủ sở hữu sáng chế trong một quỹ chung phối hợp cùng nhau chia sẻ kiến thức cũng như kinh nghiệm nghiên cứu. Đồng thời, cách phân chia lợi nhuận phổ biến của quỹ sáng chế chung là dựa vào số lượng bằng sáng chế đóng góp (bất kể giá trị kinh tế của từng bằng sáng chế riêng lẻ có khác nhau), vì vậy các chủ sở hữu góp càng nhiều bằng sáng chế thì thu được càng nhiều lợi nhuận, nhờ vậy rủi ro từ việc sản phẩm nghiên cứu không thương mại hóa được sẽ giảm đi..
IV. Kết Luận
Công nghệ càng ngày càng phức tạp, một sản phẩm công nghệ có thể chứa hàng nghìn bằng sáng chế và là sự hợp tác của nhiều hãng và chủ sở hữu khác nhau. Khó có một ai hoàn toàn nắm giữ một công nghệ hoàn chỉnh mà không hợp tác với đơn vị khác do đó việc liên kết hợp tác là điều tất yếu. Quỹ sáng chế chung còn tồn tại nhiều tranh luận về các điểm hạn chế như: tăng tính độc quyền sáng chế, giảm tính cạnh tranh, phân chia lợi nhuận bất hợp lý và khả năng câu kết giữa các chủ sở hữu để loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, có thể nói vai trò của quỹ sáng chế dùng chung trong quá trình thương mại hóa sáng chế đang ngày càng được nhấn mạnh: tránh những tranh chấp pháp lý về bằng sáng chế, chia sẻ thông tin và các rủi ro liên quan đến phát triển và thương mại hóa sản phẩm,tiết kiệm các chi phí liên quan tới bản quyền trong quá trình thương mại hóa .
Đối với Việt Nam tác giả cho rằng mô hình này vẫn cần để học tập và nghiên cứu vì hiện nay vai trò của công nghệ, sáng chế ngày càng được củng cố và nâng cao, số lượng đơn và bằng sáng chế của người Việt Nam nói chung và cả Việt Nam nói riêng đang tăng dần, các tập đoàn lớn về công nghệ đang dần được hình thành do vậy việc liên kết hợp tác là cần thiết, quỹ sáng chế chung hoàn toàn có thể là giải pháp phù hợp trong việc bảo vệ bản quyền và thúc đẩy thương mại hóa sáng chế trong thời gian tới.

Phùng Minh Hải
Viện Nghiên cứu Sáng chế và Khai thác Công nghệ